“Bảo tảng cũng phải thay đổi để thích ứng theo thời đại. Đổi mới cách thức, trưng bày để thu hút khách thăm quan từ offline, online. Quảng bá thu hút, tạo lợi thế dẫn dầu, thuận tiện cho quản lý, trải nghiệm, bảo tồn, khôi phục. Với các công nghệ số hóa, website3D, di động, VR /AR trên internet, các công nghệ mới nhất phù hợp thời đại IoT, kết nối mọi lúc, mọi nơi phục vụ mọi người. Đúng như bản chất của CMCN 4.0”
Việc chuyển đổi số từ truyên thống sang bảo tàng số là một bước tiến để đi vào một cuộc cách mạng trong nghành nói chung và di tích, cổ vật nói riêng. Các bảo tàng ngày càng trở nên hấp dẫn, gần gũi hơn với công chúng, để có được kết quả này, cả thế giới và Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể để thích ứng với xu thế phát triển chung, nhất là trong thời kỳ công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và phổ biến như hiện nay.
Tiến sỹ Chantal Eschenfelder, Giám đốc giáo dục và truyền thông Bảo tàng Staedel.Frankfurt (Đức) cho rằng với diện tích, không gian hạn chế trong khi nhu cầu khách tham quan ngày càng tăng thì cách lựa chọn tốt nhất cho một bảo tàng là mở rộng không gian trưng bày theo hình thức số hóa. Từ đó, các bộ sưu tập sẽ đến gần hơn với người dân, kể cả những bộ sưu tập rất ít khi được trưng bày.
Bảo tàng Staedel.Frankfurt đã số hóa được gần 25.000 hiện vật, xây dựng được trên 100 bộ phim kỹ thuật số phát trên mạng xã hội, thu hút hàng trăm ngàn lượt người truy cập, theo dõi…
Nhờ những ứng dụng hiện đại này, số người đến tham quan, nghiên cứu tại đây đã lên tới trên 1 triệu lượt người/năm, tăng gấp hơn 2 lần so với khi chỉ thực hiện phương pháp truyền thống.
Viện Malacca (Malaysia) có mạng lưới với hơn 24 bảo tàng, 12 phòng , đang trưng bày trên 26.000 hiện vật.
Để thu hút khách đến tham quan, họ sử dụng công nghệ tra cứu trên mỗi hiện vật giúp công chúng có thể tra cứu thông tin nhanh chóng, dễ dàng dù ở bất cứ nơi đâu, vào thời gian nào.
Họ cũng tích cực giới thiệu thông tin, hoạt động trên trang web và mạng xã hội Facebook; xây dựng các ứng dựng trên di động, phối hợp với các tập đoàn lớn hỗ trợ chức năng số hóa hình ảnh, kết nối di sản văn hóa tại đây.
Tại Việt Nam, việc số hóa điểm di tích, tương tác 3D đầu tiên đã được ứng dụng để giới thiệu trưng bày chuyên đề “Di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam” và “Đèn cổ Việt Nam” từ năm 2013. Đây cũng được coi là bước đột phá trong hoạt động của Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam.
Về công nghệ mới hay VR/AR, thạc sỹ Tô Thị Thủy Lâm, Trưởng Phòng truyền thông của Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam chia sẻ rằng đã kế thừa phương pháp nghiên cứu, xây dựng nội dung, ý tưởng, thông điệp của bảo tàng kết hợp với tính năng công nghệ mà các bảo tàng trên thế giới đã triển khai.
Họ cũng ứng dụng các công nghệ mới nhất cho phép xây dựng các tính năng hiện đại hơn và mang đậm bản sắc riêng của Việt Nam.
Với việc ứng dụng công nghệ 3D tại đây đã bước đầu đã hoàn thành số hóa 14 bảo vật quốc gia. Trong thời gian tới, Bảo tàng sẽ tiếp tục số hóa những nhóm hiện vật tiêu biểu khác theo hướng ưu tiên số hóa 3D hiện vật phục vụ cho các cuộc trưng bày chuyên đề, bổ sung thông tin hiện vật đã được số hóa 3D cho phần trưng bày thường trực.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào gìn giữ và phát huy các giá trị di sản văn hóa nói chung, các hiện vật nói riêng tạo ra cơ hội mới trong việc hấp dẫn du khách nhưng cũng đặt ra những thách thức lớn bởi nhu cầu thưởng ngoạn những giá trị lịch sử, văn hóa của công chúng ngày càng cao.
Đây cũng là điều khiến các bảo tàng hiện đại ngoài ứng dụng công nghệ còn quan tâm đến việc đa dạng hóa các loại hình, hoạt động, dịch vụ.
Giáo sư-tiến sỹ Christiana Haak, Phó tổng Giám đốc các Bảo tàng Quốc gia Berlin (Đức) chia sẻ, hệ thống ở Berlin đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội cũng như xây dựng không gian đô thị.
Bảo tàng quốc gia Berlin gồm hệ thống 15 bảo tàng 3 viện nghiên cứu với rất nhiều đồ tạo tác và hiện vật. Hiện nay, Bảo tàng tổ chức rất nhiều hoạt động nên được bổ sung thêm nhiều chức năng, dịch vụ mới để phục vụ nhu cầu của khách như xây dựng thêm khu vực phục vụ càphê, đồ ăn, bán quà lưu niệm, ngồi chờ và trao đổi thông tin…
Điều này cũng có nghĩa là các chức năng quản lý mới của bảo tàng cũng được bổ sung bên cạnh các chức năng cũ. Nhờ đa dạng hóa hoạt động, các bảo tàng trong hệ thống đã tiếp đón tới 11,9 triệu lượt khách tới thăm/năm trong số đó có tới 2,87 triệu lượt khách ở lại thành phố vài ngày.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam chính là một cách làm của di tích tương lai. Không chỉ trưng bày hiện vật của quá khứ, mà bao gồm sự kết nối giữa quá khứ và hiện đại, sự tương tác giữa hiện vật với khách tham quan.
Các hoạt động trưng bày, giáo dục, tham quan, tọa đàm, trình diễn… tại bảo tàng được tổ chức thường xuyên, theo chuyên đề, gắn với cộng đồng, với bảo tồn và phát triển các nghề thủ công, nghệ thuật dân gian… Ngoài ra, hoạt động truyền thông, tiếp thị, dịch vụ ăn uống, cửa hàng lưu niệm,… cũng được Bảo tàng trú trọng.
Việt Nam hiện có 147 bảo tàng, trong đó 36 bảo tàng của bộ ngành, có 83 cái ở tỉnh, thành phố và 4 cái do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý. Để có được thêm nhiều bảo tàng thành công như Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, phù hợp với xu thế hội nhập trên thế giới. Việt Nam đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển bảo tàng từ năm 2005-2020.
Quy hoạch này nhằm chỉnh lý, nâng cấp các bảo tàng đã có theo hướng bảo tàng không chỉ là kho lưu trữ hiện vật mà còn phải hướng đến cộng đồng, phục vụ cộng đồng; phát triển loại hình bảo tàng khoa học kỹ thuật và lịch sử tự nhiên; tạo dựng khung pháp lý năng động cho bảo tàng ngoài công lập phát triển. 10 năm qua, Việt Nam có 24 cái ngoài công lập.